Phố Hàng Nón, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

Chuyển động Hà Nội - Ngày đăng : 08:52, 14/08/2017

Phố Hàng Nón dài 216m, rộng 6m. Từ phố Hàng Quạt đến phố Đường Thành, cắt ngang qua phố Hàng Điếu.

Phố Hàng Nón dài 216m, rộng 6m.

Phố Hàng Nón, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

Từ phố Hàng Quạt đến phố Đường Thành, cắt ngang qua phố Hàng Điếu.

Đây nguyên là đất thôn Yên Nội, tổng Tiền Túc (sau đổi là tổng Thuận Mỹ), huyện Thọ Xương cũ.

Hàng Nón có từ trước thời Pháp thuộc. Sau người Pháp gọi là “rue des Chapeaux” năm 1945 lấy lại tên tiếng Việt là phố Hàng Nón. Những lần đổi tên sau vẫn giữ nguyên tên này.

Nay thuộc phường Hàng Gai, quận Hoàn Kiếm.

Tổng Thuận Mỹ có hai thôn Yên Nội, do đó có khi gọi phân biệt là Yên Nội – Đông Thành (vì ở cạnh thôn Đông Thành – tức khu vực Hàng Nón, Hàng Thiếc) và Yên Nội Cổ Vũ (vì ở cạnh phường Cổ Vũ – tức khu vực Hàng Da ngày nay). Đình thôn Yên Nội – Đông Thành nay là hai phố gộp lại: đoạn phía đông là phố Mã Vĩ chuyên làm và bán những thứ hàng phục sức dùng cho quan lại, cho phường hát tuồng, hát chèo và việc tế lễ, thờ phụng: áo xiêm, mũ, mãng, cờ, quạt… Có thể là do mũ cánh chuồn và một số đạo cụ tuồng chèo làm bằng lông đuôi ngựa nên mới có tên “mã vĩ”.

Còn đoạn phía tây thì mới là phố Hàng Nón tức là nơi làm và chủ yếu là bán các loại nón khác nhau: nón lá già, nông và dày, khâu bằng móc đen, nón mũ chảo giống như cái chảo gang, nón lính giống như cái đĩa to, ken bằng cật tre, ở giữa có chỏm bằng đồng như cái mũi giáo nhỏ, khi đội phải buộc quai chặt vào cằm, nón Nghệ, như một cái bánh xe, đường kính tới gần một mét, thành nón cao tới 10cm. Vì cồng kềnh mà lại ngang phè nên phải có cái “khua” như một cái hộp tròn đan bằng mây, trên để úp chụp vào đầu, vào vành khăn. Nón ba tầm thì sâu hơn. Cả nón Nghệ và nón ba tầm còn có thêm một cỗ quai thao buộc vào hai cái thẻ bằng bạc treo ở đỉnh nón. Cỗ thao là 12 sợi dây tròn, dệt bằng tơ, hai đầu có tua dài chừng một gang tay, buộc thành nhiều quả. Thao nhuộm thâm hoặc tím tam giang. Loại thầy đề, thầy lý thì có nón lông đen, ken bằng lông quạ, lông sáo, trên đóng một cái chóp bằng đồng bạch hoặc bằng thiếc có chỏm nhọn. Còn nhà giàu và quan to thì nón lông trắng,  ken bằng lông cò, lông vạc, chóp bằng bạc hoặc vàng.

Từ làn sóng đấu tranh của công nhân Hà Nội vào những năm 1926 – 1928, nhiều công hội đỏ đã xuất hiện. Tới mùa hè năm 1929, Nguyễn Đức Cảnh được Đảng trao cho nhiệm vụ triệu tập Đại hội Công hội đỏ toàn quốc lần thứ nhất. Về dự đại hội có đại biểu Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, vùng mỏ Đông Triều và Mạo Khê. Đại hội họp ngày 28/7/1929 tại số nhà 15 Hàng Nón. Đây là một gia đình cơ sở, mở hiệu thuộc lào. Các đại biểu làm như người buôn các tỉnh về cất hàng. Đại hội đã thông qua chương trình, điều lệ của Công hội đỏ, cử Ban chấp hành với chủ tịch đầu tiên là ông Trần Văn Lan, công nhân nhà máy sợi Nam Định.