Tục thờ chó ở huyện Đan Phượng
Người Hà Nội thanh lịch, văn minh - Ngày đăng : 14:38, 14/09/2017
Ở huyện Đan Phượng, TP. Hà Nội mọi người thường thấy đặt các tượng chó đá ở cổng làng, đầu ngõ, hoặc bên lăng mộ như để canh giữ và thường chỉ có kích cỡ nhỏ khoảng 50, 60cm… Nhưng tượng chó đá lại được hai làng thờ cùng với Thành hoàng làng, có lẽ đây là trường hợp hiếm.
1. Làng Phù Trung (nay là làng Trung Hiền) xã Thượng Mỗ, huyện Đan Phượng thuộc vùng đất bãi bồi sông Hồng, xa xưa là đầu nguồn của dòng sông Nhuệ cổ. Trong khuôn viên của di tích đình và chùa (đã được xếp hạng) có tượng chó đá. Tượng chó đá đặt trên bệ thờ ở góc bên trái của sân đình. Bệ thờ xây bằng gạch, trát xi măng, giữa đặt một hòn đá tảng chân cột của ngôi đình cũ. Tượng chó tạc bằng đá xanh ở tư thế ngồi, hai chân sau áp sát xuống đất. Thần thái tượng chó linh hoạt, mắt nhìn xa xăm, toàn thân cao một mét. Trước mặt tượng để bát hương, lễ vật đặt vào chân đá tảng hình tròn như cái mâm. Dân làng gọi là quan Hoàng Thạch, họ chăm lo hương khói, thường xuyên như lễ Thánh trong đình và lễ Phật ở chùa. Các cụ cao niên trong làng cho biết, ngày trước tượng chó đá đặt ở một gò đất cao. Trước tượng có hai cây gạo to, cao, cành lá sum suê bóng cây tỏa mát. Khi cây gạo đổ, dân làng chuyển tượng chó về vườn đình, phía trước trồng cây đa, trong vườn có nhiều cây nhãn cổ thụ che nắng cho quan Hoàng.

Chó đá ở đình Phù Trung, xã Thượng Mỗ (Đan Phượng) được đặt trên bệ thờ.
Nhân dân trong làng coi việc thờ chó đá cũng như thờ Thành hoàng là âm phù, bảo trợ cho dân khang vật thịnh, công việc làm ăn may mắn tốt lành. Quần thể di tích đình, chùa Trung Hiền vì thế càng linh ứng, đậm màu sắc dân gian.
2. Làng Địch Vĩ nay là làng Địch Đình, xã Phương Đình, huyện Đan Phượng (cách làng Trung Hiền 2km đường chim bay) cũng có tục thờ chó đá.
Trên một gò đất cao ở đầu làng, tiếp giáp với ngôi chùa cổ, có một bệ thờ rộng chừng mười mét vuông, xung quanh xây tường bao, hai cột trụ biểu, phía sau là bao lớn kiểu như hậu bành của chiếc kiệu lớn. Điều bất ngờ làm sửng sốt mọi người nơi đây là một nhóm tượng chó. Chó tạc bằng đá xanh, ngồi chễm chệ trên bệ thờ. Ngồi giữa là tượng chó lớn, cao 1m40; quây quần xung quanh là đàn chó nhỏ gồm 16 con, được tạo tác theo nhiều dáng vẻ khác nhau, hết sức sinh động và ngộ nghĩnh. Cả đàn chó lớn, chó nhỏ đều hướng về phía Tây Bắc, phía cửa sông Hát, giữa hai đỉnh núi Ba Vì, Tam Đảo xa xa.
Truyền thuyết dân gian quanh vùng kể rằng: Ngày xưa, ở vùng cửa sông Hát có hai anh em nhà nọ, người anh tên là Ngọc Trì, người em tên là Hoàng Thạch. Người anh ra trận đánh giặc, giao lại công việc nhà cửa, ruộng vườn cho em trông nom. Khi tan giặc trở về, người anh thấy vợ mình có thai liền đổ ngờ cho người em ở nhà làm điều bất chính. Rồi không kiềm được lòng ghen tức, người anh giận dữ chém chết người em, mang xác vứt xuống sông mà mắng rằng: “Đồ chó má”. Nhưng đến khi sinh nở, vợ người anh lại sinh ra một vật quái dị. Thế là người em mới được minh oan. Nỗi oan tình kia khiến xác người em hóa thành đá. Về sau đá trôi dạt xuống khúc sông đầu làng Địch Vĩ. Dân làng lấy làm lạ bèn bảo nhau vớt lên hương khói phụng thờ. Tương truyền tượng chó đá ấy là Hoàng Thạch hóa thân.

Một tượng chó đá được thờ tại thôn Địch Vĩ, xã Phương Đình, huyện Đan Phượng
Từ đó, chó đá đã phù trợ cho dân làng làm ăn ngày một no ấm, thịnh vượng. Về sau, dân làng đặt thần hiệu là “Hạ giới đại vương” đưa vào phối thờ trong đình làng cùng với “Linh Lang đại vương”. Hàng năm, vào dịp tết Nguyên Đán, cứ đến ngày khai hạ (mồng bảy tháng Giêng), dân làng Địch Vĩ (Đan Phượng) lại mang lễ vật lên đền Hát Môn (Phú Thọ) để dâng lễ và hội tế. Tục truyền rằng, chỉ khi nào có lễ vật của dân em Địch Vĩ mang lên, thì dân anh Hát Môn mới khởi lễ. Hai làng cách nhau chừng hai km đường chim bay. Và như vậy, nhóm tượng chó đá dường như cũng có ý chầu về cội nguồn sông Hát… Ở Hát Môn cũng có hai tượng chó đá cỡ lớn hướng mặt vào nhau, đặt phía sau đền thờ Quận Công.
Ở làng Địch Vĩ, tượng chó đá rất linh ứng. Dân làng coi quan Hoàng Thạch như một vị “Bao Công” để xét xử những oan ức, chuyện éo le, khó phân giải của người đời. Một người mất trộm ra đặt lễ kêu khấn thì lại thấy của. Có người bị vu oan, cậy nhờ Ngài minh giải nỗi oan sai. Đôi vợ chồng xung khắc suýt bỏ nhau, đến thề thốt với Ngài rồi lại đoàn tụ gia đình. Người buôn, kẻ bán ở gần đó cứ năng đến Ngài cầu nguyện thì ăn nên, làm ra…
Minh Nhươngsưu tầm
Theo “Tục hay, lệ lạ Thăng Long – Hà Nội”, NXB Phụ nữ, 2016