Câu chuyện bức ảnh “Hai người lính”: Kỳ cuối- Về với dòng sông xưa
Mỹ thuật - Nhiếp ảnh - Ngày đăng : 08:57, 03/05/2018
Chúng tôi về Quảng Trị hôm nay cũng là về với dòng sông Thạch Hãn năm xưa, một dòng sông bất khuất, một dòng sông đau thương của những năm khói lửa, của những năm chia cắt.
Sáng 25/1/2018, chúng tôi đón Bùi Trọng Nghĩa (người lính Sài Gòn cũ) tại sân bay Phú Bài, Huế. Nhà báo Dương Phương Vinh, báo Tiền phong chủ động nói với tôi và mấy bạn quay phim của VTV và của Quảng Trị:
- Các anh đứng ở cầu thang đầu, em đứng ở cầu thang cuối máy bay. Khi nào thấy anh Nghĩa thì gọi nhé.
Lác đác khách xuống, tôi chăm chú xem có thấy Nghĩa không. Thú thực cũng hơi lăn tăn, liệu mình có nhận ra cậu ấy ngay không. 45 năm rồi còn gì, người ta thay đổi khác lúc trẻ là cái chắc...
Bỗng nghe thấy tiếng cô Vinh reo lên:
- Ơ, anh Nghĩa đây rồi.
Thế là chúng tôi rảo bước đến cầu thang cuối. Một người tầm thước đeo kính đang bước xuống từng bậc. Cô Vinh vẫy tay, ông Nghĩa vẫy tay đáp lại, với nụ cười tươi rói. Hai người nhận ra nhau ngay, vì mấy tháng trước, Dương Phương Vinh đã tới tận nhà ông Nghĩa thăm hỏi, chụp ảnh và viết một hơi 4 bài báo. Thỉnh thoảng họ gọi điện cho nhau lo chỗ làm việc cho cháu Nhân. Từ đó cô Vinh đã trở thành người thân tín trong gia đình ông Nghĩa. Lúc này Vinh nhường tôi gặp Nghĩa trước.
Tôi bước tới gần chân cầu thang máy bay, Nghĩa đã nhận ra tôi. Chúng tôi ôm nhau, tay nắm chặt tay. Nghĩa xiết chặt tay tôi, cái xiết tay ấm áp của ông truyền sang tôi một cảm xúc thân thương khó tả. Tay chúng tôi không rời nhau, cứ thế bước từ sân ga vào trong nhà ga. Không phải đợi lấy hành lý, chúng tôi ra xe luôn. Sau bữa cơm trưa ở Huế, xe trở về Đông Hà.
Hai người lính sau 45 năm gặp lại nhau tại vùng giáp ranh năm xưa ở thôn Long Quang, xã Triệu Trạch, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, mùa xuân 2018. Ảnh: Chu Chí Thành
Xế chiều hôm đó, chúng tôi đến thăm bà Chiến ở xã Triệu Tài. Bà là du kích, đội mũ tai bèo đứng ở phía phải ảnh cạnh o Chính, bí thư xã. O Chính là người bắt tay anh lính Cộng hòa Bùi Trọng Nghĩa. Thực ra mãi đến hôm nay chúng tôi mới biết tên hai nữ du kích này. Đối với Nghĩa đây là cuộc gặp bất ngờ. Ông cùng chúng tôi nghe bà Chiến kể lại chuyện gia đình, họ hàng... Rồi bất ngờ hơn, vì người mà Nghĩa bắt tay thuở thiếu thời, theo bà Chiến kể, thì giờ đây không còn nữa. Trong khi đó tấm ảnh người con gái mảnh mai nắm tay ông vẫn trong trẻo như pha lê, vẫn mỉm cười trước mắt ông. Nghĩa ký tên vào lề ảnh chầm chậm làm kỷ niệm cho bà Chiến, và gần như ông không dám nhìn lâu hình ảnh hai cô du kích trẻ trung ấy, và lúc này cũng ít hỏi chuyện bà Chiến. Dường như có gì đó khó nói và hơn cả nỗi buồn phảng phất quanh câu chuyện bà Chiến kể. Hình ảnh bàn tay o Chính trong tay Nghĩa còn đây, lúc ấy có ý nghĩa gì, và giờ đây có ý nghĩa gì? Ông bâng khuâng chia tay bà Chiến, lặng lẽ lên xe. Hình như trong bóng hoàng hôn, nỗi buồn chiến tranh lại trỗi dậy trong ông.
Nhờ có giải phóng
Tối đến, tôi với Nghĩa mới có thời giờ nói chuyện với nhau. Ông kể: Đơn vị Thủy quân lục chiến của ông đóng ở Quảng Trị từ ngày đình chiến, sang đầu năm 1975. Quảng Trị thất thủ, họ rút chạy về Đà Nẵng, cố thủ tại Mỹ Khê. Lúc ấy, Đà Nẵng trở thành sào huyệt của Vùng 1 chiến thuật dưới sự chỉ huy của Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh vùng. Cùng với thủy quân lục chiến, nơi đây còn có các lực lượng khác như lính dù, bộ binh, tăng thiết giáp, địa phương quân... xem ra rất hùng hậu đủ sức chống lại sự tấn công của quân Giải phóng. Bên cạnh Tướng Ngô Quang Trưởng còn có các tướng nổi danh như Bùi Thế Lân, Tư lệnh Thủy quân lục chiến, Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Tư lệnh Hải quân Vùng 1... Ông Ngô Quang Trưởng có vẻ tự tin, từng công khai lên tiếng với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và các tướng tá, thề sẽ tử thủ với Đà Nẵng.
Ông Bùi Trọng Nghĩa và ông Nguyễn Huy Tạo ký tên vào bức ảnh “Tay bắt mặt mừng” ngay trên nền cát, nơi xưa là chốt giáp ranh, để kỷ niệm cho nhau. Ảnh: Chu Chí Thành
Ấy vậy mà với sức tấn công vũ bão của quân Giải phóng từ Bắc đèo Hải Vân vào, từ Tây Nguyên xuống, và từ Quảng Tín ra, quân lính Việt Nam Cộng hòa lần lượt tan vỡ. Lúc đó đơn vị của Bùi Trọng Nghĩa đóng ở cảng Mỹ Khê. Ông được chứng kiến cảnh tháo chạy hỗn loạn của những người lính Sài Gòn, cảnh chen lấn liều mạng của nhiều người dân. Loa gọi cho từng đơn vị, từng tốp vợ con lính lên tàu, nhưng nào ai có nghe. Thuyền trưởng phải ra lệnh thả thang dây cho mọi người leo lên. Nhưng nhiều người đâu có là thủy quân mà biết leo thang dây. Có người yếu đuối, run rẩy tuột tay, tuột chân rơi xuống biển bị sóng đánh chìm cuốn đi. Ngay tại Mỹ Khê, thiết xa vận được lệnh ngăn không cho thủy quân lục chiến, và bộ binh ồ ạt lên tàu, mà họ cũng không dừng lại. Chưa bao giờ Bùi Trọng Nghĩa thấy cảnh hỗn loạn như vậy.
Đơn vị Nghĩa chấp hành lệnh ém quân, họ thế thủ, hoang mang, không biết số phận ra sao. Được thoát lên tàu, hay bị bỏ rơi vào tay quân Giải phóng? Không chạy đi đâu được nữa, cuối cùng cả đơn vị của Nghĩa ra đầu hàng. Đấy là ngày 29/3/1975, ngày Đà Nẵng hoàn toàn giải phóng. Sau đó Nghĩa phải vào trại cải tạo 4 tháng. Là lính mà, không phải giam giữ lâu. May mà có giải phóng, Nghĩa thoát khỏi đời lính nguy hiểm, khổ cực. Cầm tờ giấy giới thiệu của Trại về địa phương, Nghĩa biết mình có cuộc sống mới từ đây. Năm ấy Nghĩa còn trẻ lắm, mới 21, 22 tuổi, nhưng chẳng có nghề gì trong tay. Để mưu sinh thì việc gì cũng phải làm, Nghĩa có lòng tự trọng, không bao giờ làm những việc phi pháp. Việc làm dễ nhất, lâu nhất là chở xe ôm. Về chuyện riêng tư thì người lính bảnh trai này cũng không xuôi chèo mát mái. Người vợ đầu được hai cô con gái, các con đã lập gia thất. Người vợ hai đươc cậu con trai tên là Bùi Trọng Nhân, nay đã 25, 26 tuổi chưa có gia đình riêng. Mẹ của Nhân bị bệnh sau khi sinh Nhân, từ đó trở đi mất khả năng lao động. Cuộc sống gia đình trước trông vào bố, nay trông vào con. Nghĩa tưởng mình như vậy là khổ cực lắm rồi, nhưng hôm nay gặp lại o du kích Chiến và biết thêm các o du kích khác năm xưa, thấy họ cũng vất vả không kém. Ngôi nhà của bà Chiến cũng đơn sơ như nhiều ngôi nhà nông dân quanh vùng, cũng chẳng hơn căn nhà của gia đình Nghĩa là bao. Còn sức khỏe của bà Chiến cũng không hơn bà Xuân vợ ông là mấy. Xem ra sự mặc cảm về thân phận trong con người ông có phần vơi đi. Chia tay bà Chiến, ông lặng lẽ lên xe. Tôi hỏi, còn 4 người lính Cộng hòa trong ảnh, Nghĩa có nhớ tên, có biết họ đang sống ở đâu không? Ông lắc đầu, sau năm 1975, mỗi người một phương, chẳng có liên lạc, không biết họ sống chết ra sao. Về phòng ngủ, ông trở nên trầm tư hơn. Nhưng cũng lạ lùng, tối hôm ấy, ông lại ngủ được, một giấc ngủ ngon trên đất Quảng Trị bình yên. Như ông kể, nhiều năm qua, đêm đêm ông ít ngủ, cư dân quanh hẻm đi đâu vắng, nói ông trông nhà giùm là họ yên tâm.
Trở lại Long Quang, Thành Cổ
Sáng 26/1, Nguyễn Huy Tạo mới đến Quảng Trị, chậm một hôm so với chúng tôi, do ông có buổi lễ đưa chân linh mẹ lên chùa. Tối 25 ông cùng Đại tá Trần Long, thủ trưởng cũ của đơn vị thời chinh chiến ở Thành Cổ, Quảng Trị lên tàu từ Hà Nội vào. Khoảng 4 giờ sáng hôm ấy, ông Nghĩa và tôi ra ga Đông Hà đón hai ông. Cô Vinh bị lỡ không ra ga, tôi trở thành người giới thiệu họ với nhau. Đây là giờ phút đầu tiên sau 45 năm hai người lính ấy gặp lại nhau. Lúc đầu bắt tay nhau dưới ánh đèn nhà ga họ còn ngờ ngợ, sau khi lên xe về khách sạn, nói chuyện đôi câu thì nhận ra nhau ngay, bởi họ đều có chung kỷ niệm của những ngày hòa hợp đầu tiên. Ngay buổi sáng hôm đó, chúng tôi ba người của thuở xa xưa đã trở lại chốt Long Quang. Nơi đây những năm ấy, máy bay B52 dội bom nhiều lần, pháo kích hai bên chà đi sát lại, cây cối bị phạt trụi, lâu ngày hoang hóa đầy cỏ dại lòa xòa mặt đất. Còn hôm nay là những vạt cây đước, cây dương, cây si nối tiếp nhau thành cánh rừng non tít tắp. Đi cùng chúng tôi có ông Phan Tư Kỳ - xã đội trưởng du kích và ông Lê Quốc Thạnh cũng là du kích những năm 1972,1973. Đến nơi, ông Tạo đi trước, ngó nghiêng nhận diện khu vực, định vị nơi đóng quân, chỉ cho những người đi cùng chỗ phân chia ranh giới. Rồi ông vui mừng reo lên “Đúng đây rồi!”.
Các nhà báo, các nhà nhiếp ảnh, quay phim đến tận nơi này đều muốn nghe và tận mắt thấy hai người lính ôn lại cái không khí đặc biệt, cái tình huống hiếm hoi ngày hòa bình đầu tiên ấy mà họ đã hồn nhiên bá vai nhau. Dân truyền thông muốn có hình ảnh hôm nay tương tự như ngày trước của hai người lính để câu chuyện khép tròn có hậu. Còn tôi thì hơi khác một chút, tôi muốn một lần nữa kiểm chứng xem có đúng là họ không, có gì giống xưa và có gì khác xưa... Thấy hai ông Tạo và Nghĩa hào hứng nắm tay nhau, bá vai nhau và vui với những người đi cùng, thế là tôi bấm máy. Tiếng máy chờ đợi sau 45 năm của tôi đã vang lên rất nhẹ. Khuôn hình hai cựu binh ấy được thu vào ống kính tự nhiên, dung dị như chính họ. Đặc biệt độ mở giữa ngón tay cái và ngón liền kề bên tay trái của Nguyễn Huy Tạo đặt trên vai Bùi Trọng Nghĩa vẫn y hệt như trong ảnh cũ, nó mở ra một kẽ rộng, không trệu một ly. Tuy họ đã già đi, và không mặc quân phục, xem ra khác xưa, nhưng ánh mắt, nụ cười của hai người lính ấy vẫn còn trong trẻo như ngày nào. Tôi rất thú vị với kết quả không ngờ này. Nhiếp ảnh, vâng! Nhiếp ảnh chuẩn xác tới từng chi tiết đã khiến tôi yên tâm. Tôi thầm cảm ơn nhiếp ảnh -người bạn trung thực đã giúp tôi khẳng định được hai người lính ngày nào.
Chiều tối hôm đó, cả ba chúng tôi được đến Đài tưởng niệm Thành Cổ Quảng Trị thắp hương tưởng nhớ các chiến sĩ đã hi sinh trong chiến tranh, liền sau đó tham dự chương trình kỷ niệm mang tên “Khúc ca hòa bình” tại quảng trường Giải Phóng. Ba người chúng tôi được mời lên sân khấu giao lưu để truyền hình Quảng Trị và truyền hình khu vực miền Trung VTV8 phỏng vấn, phát sóng trực tiếp qua 10 đài nữa, trong đó có Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Trong lúc giao lưu chúng tôi không giấu nổi niềm xúc động nhớ tới một thời máu lửa oanh liệt, nhớ tới đồng đội đã ngã xuống trên chiến trường. Chúng tôi lòng nhủ lòng, sự hiện diện này, lời nói này là việc ủy thác của những người đã hi sinh. Tôi nhắc tới bạn tôi, nhà nhiếp ảnh Lương Nghĩa Dũng đã buông tay máy tại Hải Lăng vào ngày giải phóng Quảng Trị 1/5/1972. Mười phút hiếm hoi trên làn sóng tối hôm ấy lại một lần nữa ngoài ước mong của chúng tôi. Không ngờ ba người trẻ tuổi hồn nhiên năm xưa từng bước ra từ ba tọa độ lửa khác nhau lại có chung một phúc phận như vậy!