Phó vương Trưng Nhị và Thái úy Phạm Huyền Thông
Người Hà Nội thanh lịch, văn minh - Ngày đăng : 12:38, 20/07/2018
Làng Cư An xã Tam Đồng, huyện Mê Linh lúc mới lập gọi là Trang Cự Triền rồi Cư Dền. Có lẽ gọi theo tên Thành Dền do bà Trưng Nhị cho dân dời làng ra khu mới để xây thành chăng? Địa danh Cư An có sự thay đổi: Trước năm 1915 thuộc tổng Hạ Lôi, phủ Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên. Năm 1950 thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 1968 thuộc tỉnh Vĩnh Phú. Năm 1979 thuộc Hà Nội. Năm 1991 thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. Và từ tháng 8 năm 2008 lại trở về Hà Nội
Đến thờ Hai Bà Trưng ở Hát Môn, huyện Phúc Thọ, TP. Hà Nội
Bản thần tích do tiến sĩ Nguyễn Cố phụng sao năm Canh Dần 1470 kể: Năm 43, vua Hán Quang Vũ phái Mã Viện và Lưu Long đưa quân đến bờ cõi nước ta. Trưng Vương truyền lệnh khẩn cấp đi các nơi để các tướng lĩnh sẵn sàng đánh giặc. Trận đầu từ ngoài biên ải, quân ta và quân Hán quần nhau quyết liệt. Giặc Hán chết như ngả rạ. Mã Viện phải xin thêm quân và tiến đến Lãng Bạc thì gặp đội tiền quân của Hai Bà. Tướng Hán là Bình Hầu bị trúng tên do đội quân của Trưng Nhị chỉ huy. Ở đây quân sĩ hai bên đều thiệt hại nhiều. Sau trận này Trưng Vương cho lui binh về giữ tại thành Hạ Lôi (Mê Linh). Bà Trưng Nhị đưa quân về trấn giữ thành Cự Triền. Có lần quân Mã Viện rất đông kéo đến vây thành Mê Linh, quân ta và quân giặc đánh nhau rất dữ dội, quân giặc chết nhiều, quân số bị hao hụt Mã Viện phải cử tỳ tướng về tâu vua Hán và xin thêm viện binh. Vua Hán lo sợ cho tiếp thêm nhiều quân đưa sang nước ta. Nhận được thêm viện binh bổ sung, y củng cố lực lượng và dùng lực lượng vừa đông vừa mạnh để vây thành, tình thế trở nên ngặt nghèo và nguy cấp. Bà Trưng Nhị được tin cấp báo, liền cho đem lương thực và binh sĩ đến tiếp viện giải vây. Quân ta từ thành Cự Triền được chia ra nhiều mặt tiến quân thẳng hướng về thành Mê Linh với khí thế bừng bừng quyết tâm chiến đấu để giết giặc cứu thành. Mã Viện đem quân đón đánh viện binh của ta nhưng đã bị quân ta từ bốn mặt vây đánh. Giặc Hán bị thiệt hại nhiều nên chúng giãn binh lui ra xa thành.
Trong trận quyết liệt này, bà Trưng Nhị dũng cảm và mưu trí đã giết được tên tỳ tướng và nhiều binh sĩ của giặc Hán. Quân ta thắng lớn, thành Mê Linh được giải vây. Sau khi bị thua, Mã Viện lại sai người đưa sớ về tâu vua và lại được gửi thêm quân, chúng lại đưa quân đến vây hãm thành Mê Linh, lần này lực lượng đông gấp bội. Trước tình thế gay go, Trưng Vương liền rút quân về thành Cự Triền. Mã Viện cho quân đuổi theo quân ta, nhưng đã gặp đạo quân của Lũ Lũy đón đánh quyết liệt giết nhiều quân giặc nên cũng không đuổi theo được.
Từ khi Trưng Vương lui quân về hợp tác với Trưng Nhị ở thành Cự Triền, lực lượng ta được tăng cường, các đồn ải được củng cố lại vững chắc. Mã Viện nhiều lần đem quân đến tấn công bao vây thành nhưng đều bị quân ta đánh lui. Tuy nhiều lần thua nhưng Mã Viện vẫn âm mưu đánh chiếm thành để tiêu diệt nghĩa quân Hai Bà, y cho xây đắp thành ngay bên cạnh thành Cự Triền cách khoảng 3 dặm, gọi là thành Vượn.
Thành được xây trên cánh đồng chiêm trũng giữa khoảng cách hai làng Cự An và Nam Cường thuộc xã Tam Đồng.
Quân Mã Viện từ thành Vượn (phía Nam) và thành Mê Linh (phía Đông) mở nhiều cuộc tiến công vào thành Cự Triền, nhiều trận đánh giặc bị thua to, chết nhiều, phải lui quân. Chúng liền cho tập trung quân đánh vào tiền đồn, Văn Lôi do Lũ Lũy tướng quân chỉ huy. Hai bên đánh nhau ác chiến mấy ngày đêm, quân giặc chết nhiều, quân ta cũng thiệt hại. Lũ Lũy tướng quân bị hại. Đồn tiền tiêu thành Cự Triền ở vào tình thế o ép.
Hai Bà đánh một trận lớn sau rút quân khỏi thành Cự Triền lui về đất Cấm Khê (huyện Yên Lạc – Vĩnh Phúc ngày nay). Rồi Hai Bà hóa ở Hát Giang ngày 8/3 sau Công nguyên. Thành hoàng bản thổ của Cư An là Thánh Phạm.
Sự tích kể: Nghe tin Phạm Huyền Thông là người có tài, có thuật dùng binh, Đinh Bộ Lĩnh cùng quân sĩ đã tới trang Hồ Liên mời ông ra giúp nước. Thấy tướng Đinh là người có trí dời non lấp bể, thống nhất sơn hà, Huyền Thông dốc sức phò giúp.
Biết tin tướng Đinh đến Hồ Liên, Phạm Phòng Ất ở Đằng Châu đến bao vây, Huyền Thông liền cùng với nhân dân binh sĩ đánh tập kích, phá vòng vây cho tướng Đinh thoát ra ngoài. Từ khi có được Huyền Thông, uy danh tướng Đinh chấn động khắp nơi và truyền hịch kêu gọi các tướng lĩnh, đồng tâm vì nước, dựng nghĩa trừ tà, có 4 vạn người tụ nghĩa dưới cờ lau. Nguyễn Bặc làm Đại nguyên soái, Đinh Điền và Trịnh Tú làm Đại tướng quân, Huyền Thông giữ chức Thống lĩnh Tiền quân, cai quản mọi cánh quân thủy bộ.
Tướng Đinh mở tiệc khao quân rồi chia làm 3 đạo: Đạo thứ nhất do chính tướng Đinh chỉ huy đánh nhánh quân Ngô Nhật Khánh, Lý Công, Kiều Thuận; Đạo thứ hai do Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Trịnh Tú đánh bốn cánh quân của Kiều Công Hãn, Nguyễn Thái Bình, Đỗ Cảnh Thạc, Nguyễn Thủ Tiệp; Đạo thứ ba do Thái úy Huyền Thông chỉ huy đánh cánh quân của Ngô Nam Đế, Nguyễn Siêu và Phạm Phong Ất. Tất cả đều bách chiến bách thắng.
Tướng Đinh lên ngôi vua hiệu Đinh Tiên Hoàng năm Thái Bình, Canh Ngọ (970) đóng đô ở Hoa Lư phong tước hiệu cho các khai quốc công thần gia phong cho Huyền Thông chức Thái úy thượng quốc. Ông được hưởng lộc tại huyện An Lãng (Yên Lãng) vùng đất huyện Mê Linh.
Ngày 12 tháng 11 năm Âm lịch, Huyền Thông trở về trang Phương Lịch (Phượng Mỹ) thăm cố hương và hóa tại đây. Đình Phương Mỹ (xã Mỹ Hưng, huyện Thanh Oai) và đình Cư An (xã Tam Đồng, huyện Mê Linh) đều thờ làm Thành hoàng.
Dân làng gọi Nhị là Nhợi, Thông là Thuông. Đình Cư An hiện còn 7 đạo sắc phong. Vua bà có 4 đạo sắc, đạo sớm, Đồng Khánh năm thứ 2 (1782). Đạo muộn, Khải Định năm thứ 9 (1924) Thánh Phạm có 3 đạo sắc, đạo sớm Thành Thái năm thứ nhất (1889), đạo muộn Khải Định năm thứ chín (1924)… Bộ VHTT xếp hạng Di tích cấp Nhà nước ngày 27/1/1986 và ngày 12/3/1993.
Trải qua các triều đại, đình vẫn phụng thờ hai vị thánh. Hàng năm có các lễ tiệc: Ngày 8/1 trò diễn tứ dân, ngày 6/2 tiệc xuân, ngày 8/3 giỗ Bà Trưng, ngày 12/11 giỗ Thánh Phạm.
Làng Cư An có 2 giáp: Giáp Trung, Giáp Đoài thường thay phiên nhau nhận ruộng công để lo cho tiệc cúng ở đình miếu. Trước đây ngày hội có mời làng Hạ Lôi. Ngày hội có tiệc bánh dày. Gạo nếp vàng được chọn lọc để thổi xôi giã bánh. 10 cái chày cho các trai tráng giã vào mo cau có phết lòng đỏ trứng gà cho khỏi dính. Bánh dầy phải trắng, thơm, dẻo. Đêm 30 tháng Chạp có tiệc. Sân đình được dọn dẹp, dân làng mang ra hai cái chõng để thịt lợn. Ông lợn được chọn giống tốt thường là lợn đực, mình trường, mông vuông, da láng bóng nuôi cẩn thận trong năm, ông ốm được ăn mía, ăn cháo gạo như con trẻ. Cỗ lợn được chia làm theo ngôi thứ, ai mua nhiều theo chức sắc thì được chia nhiều. Còn thủ lợn ngậm cái đuôi láng mỡ chài kèm hương hoa oản quả, đặt lên mâm đưa vào đình cúng Thành hoàng.
Phó vương Trưng Nhị được triều Lê phong “Bình Khôi thông tuệ Trinh thục công chúa Đại vương”. Bà được làm Thành hoàng ở Cư An xã Tam Đồng. Và được thờ ở nhiều nơi như xã Lâu Thượng (Việt Trì) xã Kinh Kệ (huyện Phong Châu) xã Cao Mại (huyện Lâm Thao) thuộc tỉnh Phú Thọ, xã Nguyệt Đức (huyện Vĩnh Lạc) tỉnh Vĩnh Phúc… và đặc biệt là Trưng Nhị cùng Trưng Trắc được tôn vinh ở 4 làng kết chạ: Hạ Lôi, Hát Môn, Đồng Nhân (Hà Nội) và Phụng Công (Hưng Yên). Nhớ câu đối cổ, bản dịch của Nguyễn Huy Canh:
Vua chị, vua em, hào kiệt thế gian khó sánh
Còn nền, còn móng, Xuân Thu hương lửa dài lâu.