Bảo vệ quyền lợi người lao động di cư

Tin tức - Ngày đăng : 08:10, 21/09/2018

Một trong những nội dung thu hút sự chú ý trong khuôn khổ chương trình Hội nghị Ban Chấp hành Hiệp hội An sinh xã hội ASEAN (ASSA) 35 diễn ra tại TP Nha Trang (tỉnh Khánh Hòa) vừa qua, là vấn đề “Tự do dịch chuyển lao động tại các nước ASEAN và các nước đang phát triển”.
Các chuyên gia nhận định, việc bảo đảm quyền lợi cho người lao động di cư là một yêu cầu cấp thiết và có thể thực hiện được qua các hiệp định song phương, đa phương về an sinh xã hội cũng như sự nỗ lực của mỗi quốc gia.

Bảo vệ quyền lợi người lao động di cư
Phần lớn công nhân xây dựng tại Singapore là lao động nhập cư.

Bảo vệ quyền lợi người lao động di cư

Theo ông Mohammed Azman, Tổ chức an sinh xã hội Malaysia, người lao động di cư đang là vấn đề nóng không chỉ ở các quốc gia châu Á, mà trên phạm vi toàn thế giới. Hiện ở Malaysia, thị trường lao động đã chịu sự phụ thuộc vào lao động di cư với con số tăng dần qua các năm (từ 1,8 triệu người được cấp phép năm 2014, tăng lên hơn 2,2 triệu người vào năm 2017). Ngoài ra, còn có những đối tượng không được cấp giấy phép. Người lao động di cư thường chỉ quan tâm đến tiền lương và điều kiện làm việc, mà không quan tâm nhiều đến việc tham gia các chế độ bảo hiểm, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp… Đáng chú ý, lao động di cư là nữ đang chiếm tỷ lệ lớn với các công việc thiếu ổn định, thu nhập thấp như giúp việc gia đình, chăm sóc bệnh nhân, lao công, nông nghiệp… Điều này đòi hỏi các quốc gia cần nhanh chóng có những giải pháp để thay đổi nhận thức, bảo đảm quyền lợi cho đối tượng lao động di cư.

Về sự thiệt thòi của người lao động di cư, ông Kim Young Eil, Giám đốc Trung tâm phụ trách Các vấn đề quốc tế tại Hàn Quốc cho biết: Một số người lao động Hàn Quốc đã làm việc 8 năm tại Mỹ và đã nộp thuế an sinh xã hội với tổng số tiền 122.400 USD, nhưng do chưa đóng đủ thời gian tối thiểu 10 năm để hưởng chế độ hưu trí của Mỹ, nên không đủ điều kiện nhận lương hưu. Tương tự, tại châu Á, lao động ở khu vực này gặp khó khăn trong việc nhận quyền lợi hưu trí từ nước ngoài, vì thời gian được bảo hiểm của họ thường dưới 10 năm. Nếu một người đủ điều kiện nhận lương hưu ở một nước khác, nhưng lại quay lại nước mình, khoản lương hưu đó có thể bị giảm hoặc không được trả về nước đó.

Theo ông Đinh Duy Hùng, Phó Trưởng ban Thu, Bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam, nước ta hiện có khoảng 500.000 người đi làm việc tại nước ngoài và mỗi năm số lượng người tăng thêm không nhỏ. Song, mới có khoảng 6.000 người trong nhóm đối tượng này tham gia BHXH và chưa có phương pháp quản lý hiệu quả về BHXH… Hiện tại, Việt Nam có 231.000 người tham gia BHXH tự nguyện, còn rất thấp so với 18 triệu lao động phi chính thức trong cả nước. Việc mở rộng độ bao phủ BHXH, bảo hiểm y tế cho nhóm đối tượng này có nhiều thuận lợi, khi hệ thống pháp luật đã cơ bản hoàn thiện, được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. 

Cần có các hiệp định về an sinh xã hội

Để bảo vệ quyền lợi của người lao động di cư, việc ký kết các hiệp định song phương, đa phương giữa các quốc gia về BHXH được nhiều người coi là điều kiện tiên quyết, quan trọng nhất. Theo ông Kim Young Eil, Hàn Quốc hiện có lao động làm việc ở 194 quốc gia. Vì vậy, Hàn Quốc đã ký hiệp định an sinh xã hội với các quốc gia này, nhằm giải quyết và bảo đảm các quyền lợi cho người lao động trong thời gian làm việc ở đó và cả sau khi về nước. Ông Kim Young Eil nhấn mạnh, nếu không có hiệp định về an sinh xã hội, người lao động sẽ chịu rất nhiều thiệt thòi. Hiệp định giúp loại bỏ bảo hiểm kép, tức đóng ở cả 2 nước, giảm bớt gánh nặng tài chính đối với lao động ở nước ngoài hoặc những người tự làm việc ở nước ngoài; người lao động đủ điều kiện nhận chế độ hưu trí thông qua tổng thời gian bảo hiểm; công nhân nước ngoài được đối xử bình đẳng với công dân của nước ký kết hợp đồng…

Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều rào cản, thách thức để ký kết được các hiệp định này, nhất là khi một số quốc gia không tìm được tiếng nói chung. Châu Á nói chung và ASEAN nói riêng có rất nhiều hệ thống, mô hình về an sinh xã hội với sự khác biệt lớn. Bên cạnh đó, tại nhiều quốc gia, hệ thống an sinh xã hội chưa hoàn thiện, độ bao phủ còn thấp, nên chưa đủ nguồn lực hoặc thiếu kinh nghiệm trong bảo vệ quyền lợi cho lao động di cư.

Ông Jens Schremmer, Trưởng Văn phòng Tổng Thư ký Hiệp hội An sinh xã hội thế giới cho rằng, người lao động di cư thường làm việc ngắn hạn, nhiều biến động, ít quan tâm đến quyền lợi của mình. Do vậy, công tác thống kê và truyền thông rất quan trọng. Bên cạnh đó, các chính sách cần được thiết kế hấp dẫn hơn, cách tiếp cận đơn giản, thuận tiện hơn thông qua ứng dụng công nghệ thông tin.

Còn Tổ chức An sinh xã hội Malaysia chia sẻ: Những lao động di cư được cấp giấy phép làm việc tại Malaysia được áp dụng theo quy định của nước này, nhằm hướng tới sự bình đẳng cho người lao động nhập cư. Năm 2011, Malaysia đã sửa đổi Bộ luật Lao động, trong đó quy định chủ sử dụng lao động phải tuân thủ cơ chế: Người lao động nước ngoài hưởng công bằng với lao động trong nước. 

Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Trần Đình Liệu nhấn mạnh, xu thế phát triển an sinh xã hội thế giới có sự tác động mạnh mẽ của Cách mạng công nghiệp 4.0 và tự do dịch chuyển lao động. Những thông tin mà đại diện các nước cung cấp sẽ tạo cơ sở cho các chính phủ, nhà hoạch định chính sách tiếp tục hoàn thiện chính sách, nhằm bảo đảm cho người lao động được hưởng đầy đủ quyền lợi, dễ dàng thích ứng với yêu cầu chuyển đổi của nền kinh tế, lao động và việc làm dưới tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0.

Khánh Vũ/HNM