Những đóng góp của Bùi Huy Bích với văn học dân tộc
Mỹ thuật - Nhiếp ảnh - Ngày đăng : 19:18, 10/10/2018
Bùi Huy Bích (1744-1818), tự Hy Chương, hiệu Tồn Am, Tồn Ông, thuộc dòng dõi thi thư, cháu bảy đời Quảng Quận công Bùi Xương Trạch (1451-1529), quê làng Định Công - Thanh Trì (Hà Nội), có vợ dự hàng anh em thúc bá bên ngoại với chúa Trịnh Sâm (1737-1782), là quan chức, học giả và nhà thơ nổi tiếng giai đoạn cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX.
Tuổi thơ ông nhiều vất vả, mất mẹ khi mới 5 tuổi, phải theo cha đi dạy học, trải khắp xứ Sơn Nam, Hải Đông. Đường khoa cử của ông không mấy suôn sẻ, thi đỗ Giải nguyên trường Sơn Nam năm Nhâm Ngọ (1762). Qua bảy năm sôi kinh nấu sử, ông đỗ Hoàng giáp năm Kỷ Sửu (1769). Sau khi đỗ, được xếp việc ngay và đường quan lộc của ông khá hanh thông: từng làm Hiệu lý kiêm Đông các Hiệu thư ở Hàn lâm viện (1771-1776); luân chuyển giữ chức Đốc đồng, Hiệp trấn ở Nghệ An, từng kinh lý và tuyên dụ ở Thuận Hóa (1777-1781); sau về kinh thăng chức Bồi tụng, Tham tụng (1781-1785); rồi ngay sau đó rời bỏ chính trường, bất hợp tác với cả Lê, Trịnh, Tây Sơn và Gia Long khi mới bốn mươi tuổi. Như vậy, ông làm quan trong ngoài 15 năm, ngao ngán, bất lực giữa buổi suy tàn của triều Lê – Trịnh, sau này ngơ ngác trước cuộc đổi thay với hai nhà Quang Trung – Gia Long... Tôi nói lại một chút tiểu sử đời quan chức và bối cảnh thời đại để soi xét, cắt nghĩa rõ hơn tư cách học giả, nhà thơ, đặc điểm trước tác và những đóng góp của Bùi Huy Bích với nền văn học đân tộc giai đoạn cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX…
Bên cạnh tư cách nhà quan, Bùi Huy Bích còn là học giả, nhà thơ, có cả một sự nghiệp trước tác thơ văn đồ sộ, chia thành hai loại chính: biên khảo và sáng tác.
Khác với loại sách thi văn tuyển tầm vóc quốc gia, triều đình, chính thống, có ý nghĩa “tục thái”, “bản quốc”, “phong hóa”, “Ngọc ấn san hành”, “Sắc tứ san hành”, cả hai bộ sách Hoàng Việt thi tuyển, Hoàng Việt văn tuyển của Bùi Huy Bích đều thuộc kiểu biên soạn quan gia, tư gia, gia tộc, tự lực cá nhân, bên lề, “hợp tập luật thi, trích diễm”, “dụng vi gia đình chi huấn”, “Quan Hành Tham tụng”, “Tồn Am gia tàng”… Nhìn chung, loại sách này không thuộc diện đề tài Nhà nước, không được bảo trợ, hỗ trợ kinh phí, do đó cũng không chịu sự bao cấp, quản lý, giám sát về tư tưởng; không phân cấp quản lý, phân chia kinh phí; không yêu cầu báo cáo tiến độ, thời hạn nghiệm thu, xuất bản. Chính cách làm này khiến cho sách Hoàng Việt thi tuyển (nguyên tên Thi sao) hoàn thành từ mùa thu năm Mậu Thân (1788) nhưng qua gần nửa thế kỷ, mãi đến năm Ất Dậu (1825) mới được học trò Phạm Hy Văn (Nguyễn Tập?) đưa ra khắc in; còn Hoàng Việt văn tuyển cũng hoàn thành cùng sách trên nhưng khắc in chậm thêm hai năm sau, Kỷ Hợi (1839)… Với hai công trình biên khảo đại thành Hoàng Việt thi tuyển, Hoàng Việt văn tuyển, có thể coi Bùi Huy Bích là đại biểu chuyên tâm sưu tập, biên soạn văn thi tập cuối cùng dưới thời trung đại.
Bên cạnh sự nghiệp khảo cứu, biên soạn văn thi tập, Bùi Huy Bích còn trực tiếp sáng tác cả văn xuôi và thơ ca. Về văn xuôi, Bùi Huy Bích có Lữ trung tạp thuyết (Bàn giải tản mạn trong cảnh lữ khách), gồm 2 quyển, viết khi lánh nạn ở Sơn Tây, trong đó tập trung luận giải về đạo trời và tính người. Tiếc rằng Lữ trung tạp thuyết cũng như các tác phẩm văn xuôi (ký, văn tế) đến nay vẫn chưa được phiên dịch đầy đủ…
Về sáng tác thơ ca, Bùi Huy Bích có Bích Câu thi tập, Nghệ An thi tập, Thoái hiên thi tập, sau được tập hợp trong Tồn Am thi cảo gồm 670 bài (có thuyết nói 681 bài), có thêm lời tựa của Phạm Nguyễn Du và Lê Quý Đôn…
Vốn là người có điều kiện đi nhiều, chịu khó quan sát, ghi chép, đề vịnh, Bùi Huy Bích có cả một dòng thơ du ký, trải rộng các địa danh, các miền danh lam thắng cảnh với những chùa Phổ Linh, Bích Câu, Đại La, Quang Liệt, Hồ Tây, Tô Lịch (Thăng Long), Khánh Tân (Sơn Tây), chùa Cổ Mễ - Võ Giàng (Bắc Ninh), Yên Ninh – Lạng Giang (Bắc Giang), sông Lam, Yên Trường, Phượng Thành, Bãi Bạng – Bãi Sò (Nghệ An), thành Lục Niên (Hà Tĩnh), Thạch Xá – Lệ Thủy (Quảng Bình), Nam Giao (Huế)… Tâm thế của người du ngoạn được Bùi Huy Bích nhấn mạnh trong lời kết bài thơ Đề Cổ Miếu sơn tự chung lâu Võ Giàng huyện (Thơ đề gác chuông chùa Cổ Mễ huyện Võ Giàng):
Du khách ngẫu phùng thanh thưởng xứ,
Hoài nhân bất tại hựu thùy đồng.
(Du khách gặp may vui thưởng thức,
Bạn thơ chẳng có, biết cùng ai)
(Bùi Quang Thuận dịch)
Chấp chính giữa thời vua Lê chúa Trịnh và lại gắn bó, hệ lụy nhiều hơn với nhà chúa, chắc chắn Bùi Huy Bích luôn bị lâm tình thế bởi cơ chế “lưỡng đầu chế” tạo ra. Trong thực tiễn sáng tác, Bùi Huy Bích không quá vọng tưởng vào vương triều chính thống. Ngay cả khi theo vua tòng tế Nam Giao, ông cũng thiên về tả cảnh và nhận mình như một chứng nhân hơn là người trong cuộc, nhập thân. Khi theo vua đi thăm hồ Tây, ông tiếp tục lối thơ đề vịnh, cho đến câu kết mới nhắc đến nhà vua như một lời xã giao phải phép:
Nhất hoằng vân thủy thiên nhiên kính,
Ưu tá ngô vuơng chiếu cổ câm.
(Mây nước tấm gương trải rộng khắp,
Giúp vua soi tỏ việc cổ kim)
(Sau lập xuân hai ngày theo vua đi thăm hồ Tây – Bùi Quảng Thuận dịch)
Khác biệt với xu thế hướng tâm ngợi ca vương triều, ngợi ca thánh đế, Bùi Huy Bích thiên về bày tỏ những băn khoăn, nghi ngại, ngờ vực trước cuộc sống. Từ thực tế những điều trông thấy, trải nghiệm, ông lên tiếng trước việc quan binh làm hại người dân:
Kiến thuyết quan binh công lược bạo,
Dân gia phiến tịch đãng vô di.
(Nghe nói quan binh công phá dữ,
Sạch không manh chiếu của dân này)
(Ngủ ở Thạch Xá – Trúc Khê dịch)
Ngay trong cảnh Tết ông vẫn chạnh nhớ đến người dân, thấu hiểu khoảng cách quan – dân và đắng lòng trước sự thật nhãn tiền:
Quanh năm vất vả cũng nên vui chơi,
Ta lười, gặp ngày xuân cũng muốn lòng thư thái.
Chỉ có điều nghĩ đến người dân thiếu ăn từ mùa thu năm ngoái,
Trước mâm cỗ, nâng chén lên lại thấy ngậm ngùi.
(Thơ làm sau ngày mồng một tháng Giêng…)
Giữa ngày vui xuân sớm Thăng Long mà lòng ông trĩu nặng dự cảm về một mai vô phương, bất định:
Năm ngoái thiên tai làm mùa màng hao tổn,
Trộm cắp nhiều quấy nhiễu khắp nơi.
Sớm nay cảnh vật nơi này thật đẹp tươi,
Chẳng biết tình hình ngoài chốn kinh kỳ ra sao?
(Xuân sớm…)
Khi khác, ông liên hệ, rộng mở tầm nhìn và tưởng vọng cuộc sống chúng dân lao khổ:
Thiên giáng cơ hoàng bệnh thử dân,
Cô cùng chuyển tỉ cực toan tân.
Dạ lai phong vũ hàn như thử,
Đạo lộ ưng đa thất sở nhân.
(Giời gieo tai ách khổ dân chưa,
Cùng kiệt muôn nhà đã xác xơ.
Mưa gió đêm qua trời lạnh lắm,
Ngoài đường chi thiếu kẻ bơ vơ)
(Vô đề 2 - Trúc Khê dịch)
Từ đây, ông đặt dấu hỏi về trách nhiệm của chính thể, những người ăn lộc nước, những kẻ sáo ngôn mà vô dụng trước thực tại:
Mùa hạ hạn hán, mùa thu sương giá, mùa đông có nạn côn trùng,
Mùa màng năm nay thật đáng xót xa.
Kẻ bỉ nho đừng nói đến chuyện xoay chuyển vận nước,
Những kẻ hưởng bổng lộc ở triều đình là những ai?
(Vô đề 1)
Điều quan trọng hơn, Bùi Huy Bích không thuộc kiểu người quan liêu, sáo rỗng, cao cao tại thượng, tự cho mình cái quyền “trừ mình ra” trước mọi thăng trầm thế sự. Chính vì thế mà ông luôn cảm nhận những giới hạn, thấy đáng hổ thẹn vì bất lực trước thực tại đất nước cũng như trước những phẩm chất cao đẹp của những Chu Văn An trong bài Quang Liệt xã Giang Thượng ngâm (Khúc ngâm trên sông xã Quang Liệt), ngậm ngùi trước Thân Nhân Trung trong bài Quá Thân công Nhân Trung cố lý (Qua làng cũ ông Thân Nhân Trung), tự cảm thẹn lòng với nhà ẩn sĩ Nguyễn Thiếp và hân hoan khi tiễn đưa thầy Lê Quý Đôn đi trấn thủ Thuận Hóa…
Trong chiều hướng ly tâm, mở rộng tầm nhìn về chúng dân trăm họ và khả năng tự nhận thức, thức tỉnh, hướng đến tự phản tỉnh và lên tiếng tự phán xét, tự trào:
- Sơ dung bệnh tẩu tri hà dụng,
Đãn mờ qua thử mộ giai.
(Già yếu làm chi thân biếng nhác,
Cuốc vườn vui với thú giồng dưa)
(Nhà thôn đêm lạnh… - Trúc Khê dịch)
(Nhà thôn đêm lạnh… - Trúc Khê dịch)
- Chỉ tàm nhiếp lý hào vô bổ,
Diệc xỉ thiên gia pháp dụng thần.
(Chỉ thẹn không giúp ích gì cho chính sự,
Vậy mà vẫn được xếp vào hàng tụng thần)
(Ngày mồng một Tết Nhâm Dần)
Nhìn chung, có thể thấy tiếng thơ của Bùi Huy Bích không quá qui phạm, khuôn thước, chính thống, một chiều hướng tâm tụng ca vương triều, thánh đế mà in đậm tiếng nói hiện thực, hướng về chúng dân trăm họ cũng như bộc lộ sắc nét tâm trạng con người cá nhân trong sinh quyển nền văn học nhân văn nhân đạo giai đoạn cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX.