Nhà thơ và khóm hồng bên cửa sổ

Thơ - Ngày đăng : 10:56, 15/10/2018

Cả làng là một cục xi măng. Không hiểu sao gần đây, mỗi bận về làng, tôi lại thường nhẩm đọc câu thơ này của ông. Ông là nhà thơ Thợ Rèn, từng nhiều năm công tác ở báo Nhân dân.
Năm 1955, báo mở chuyên mục “Chuyện lớn... chuyện nhỏ”, ông và ông Như Phong được coi là những người sáng lập, khai sinh ra nó. Cái chuyên mục chiếm vị trí khiêm nhường trên trang báo, nhưng có tác dụng rất lớn với bạn đọc và xã hội. Tuy chỉ là những lời châm biếm, nhắc nhở, phê phán nhẹ nhàng thói hư tật xấu của xã hội, bằng những vần thơ giản dị và hóm hỉnh, vậy mà ăn sâu vào tâm trí độc giả và ảnh hưởng với công chúng rộng lớn. Nhiều người hăm hở chờ đợi, lại không ít kẻ kinh sợ những vần thơ này. Phải nói, qua chuyên mục mà ông đã dốc tâm làm việc một thời gian dài, thấy tác dụng của văn chương báo chí là không nhỏ. Ông chả nhận ông là nhà thơ nhà văn nổi danh ầm ĩ gì, chỉ khiêm nhường thấy mình như người bạn, người anh, người thợ cần mẫn cùng mọi người  rèn rũa cái sai, cái tật xấu của mình, của mọi người, của xã hội; để mình, để mọi người, để xã hội ngày một tốt đẹp hơn. Trong thời gian làm chuyên mục “Chuyện lớn... chuyện nhỏ” ở báo Nhân dân, nhà thơ Thợ Rèn đã sáng tác hàng nghìn bài thơ. Đó là sức làm việc nghiêm túc và thiện tâm đáng trân trọng.

Nhà thơ và khóm hồng bên cửa sổ
Trước ông, đã có nhiều nhà thơ viết thơ châm biếm, đả kích thói hư tật xấu của xã hội. Nhắc tới họ, phải kể tên đến những bậc kỳ tài, như Tú Xương, Tú Mỡ... Không dám so sánh với các bậc tiền nhân, ông chỉ nhận mình như một người làm văn nghệ quần chúng. Ông  từng tâm sự “Văn học với tôi là khó quá. Mãi sau này tôi mới biết đó là viết phục vụ nhiệm vụ chính trị kịp thời. Ý thức về sáng tạo, tận thiện, tận mỹ là còn xa vời với tôi”. Ấy là ông nói khiêm nhường thôi, chứ ông đã đóng góp đáng kể vào thành tựu văn học của nước nhà. Nếu nói tới mảng văn học với đề tài châm biếm, đả kích, xây dựng, là không thể không nhắc tới nhà thơ Thợ Rèn. Tôi nhớ một cái Tết Nguyên đán không xa, theo thói quen của người đọc, mở trang báo Tết ra, nhiều người tìm ngay mục “Chuyện lớn... chuyện nhỏ”. Ấy vậy, không hiểu sao số báo Tết ấy lại không có thơ của ông. Nhiều độc giả đã gửi thư về ban biên tập, hỏi có phải nhà thơ bị ốm, hay thơ ông phê “nặng” quá, báo không in được? Quả thật Tết năm ấy ông bị ốm, nên không viết kịp. Nghe chuyện này, khi đỡ mệt, dù vẫn phải dùng thuốc bệnh, ông  đã vùng dậy viết để đáp lại lòng mến mộ của bạn đọc gần xa.  Lại có một dạo, bài thơ “châm” của ông đã được in trên báo Tết rồi, ấy mà  nhiều người còn phô-tô lại để làm quà Tết tặng người thân. Bài thơ ấy, bây giờ đọc lại vẫn thấy tâm tình xây dựng chân tình của ông:

Nên chăng có vài câu phản chúc 
Cho rõ ràng xanh, lục, trắng, đen
Không chúc loại người hiền cổ lỗ
Ngồi trên tòa rụt cổ khoanh tay
Lập trường thịt bụng bầy nhầy
Đằng đông cũng gật, đằng tây cũng ừ
...
Ta càng chán anh “đồ mắc xít”
Đầy một mồm toàn đít xì cua
Tinh thần lý luận có thừa
Gạo chiêm chẳng biết, gạo mùa chẳng hay
Càng chán ngắt những tay đơm đó
Hóng lập trường đón gió che phên
Phấn son phủ cái mặt hèn
Vì dân thì ít vì trên thì nhiều.   

Thái độ phê phán thói hư tật xấu trong xã hội của ông rất quyết liệt, nhưng sâu thẳm tấm lòng ông lại là sự yêu thương đến xót xa. Trong một bài thơ viết trong Tết Mậu Dần (1998) ông viết:

Bút nghiên một kiếp phên che gió 
Sự nghiệp trọn đời hít mía voi
Tượng vỡ mới hay toàn đất sét
Bão to đa đổ hết bình vôi

Sự đời nhốn nháo, vốn là điều ngàn đời bể dâu, đâu dễ sửa chữa, sắp xếp  được. Nhân nói về việc xem múa rối nước, ông đã cảm thán sự đời mà đại văn hào Ban Zắc, người  từng dựng bộ sách “Tấn trò đờ” “Ban Zắc trò đời nghìn trang sách/ Bây giờ dối giả chỉ vài giây!” thì tôi hiểu thêm tâm thế ông trước cuộc đời và tôi cũng hiểu thêm lý do gì mà ông mãi dùng ngòi bút để theo đuổi mảng thơ ca châm biếm và xây dựng như thế.
***

Vốn là người lịch thiệp và quảng giao, căn phòng gác hai trong ngôi nhà biệt thự nhiều hộ ở phố Trần Hưng Đạo (Hà Nội) của ông luôn là nơi gặp gỡ các văn nghệ sĩ. Thời ông Nguyễn Tuân còn sống, nhà văn vang bóng này thường chống ba-toong lên cái cầu thang, gõ cửa phòng vào thăm ông. Ông Thợ Rèn bao giờ cũng để dành những chai rượu quý để tiếp bạn. Dạo đó, ông còn có người anh ruột, làm chủ một khách sạn và một nhà hàng sang trọng bên Paris, vẫn thường gửi rượu và thuốc lá ngon về cho ông. Có rượu và thuốc lá ngon, là ông lại nhắn mời bằng được các bạn văn đến thưởng thức cùng. Cạnh nhà ông dạo đó còn có nhà văn Kim Lân, nhà văn Tô Hoài. Ông Kim Lân dáng người nhỏ thó, sành uống trà Tầu, nhưng lại  thích  ăn kẹo vừng, kẹo bột, uống nước nụ vối ủ nóng. Ông Tô Hoài khi nhấp ngụm rượu thường ngồi yên lặng, thỉnh thoảng miệng cười tủm, ánh mắt nhìn hoang vắng. Lại còn bao họa sĩ cũng thường lui tới căn phòng này. Đấy là  ông Linh Chi, ông Sỹ Ngọc, ông Nguyễn Thụ... Lại có cả cụ Bách, nhà thư pháp nổi tiếng, đi bộ từ phố Tràng Tiền đến trao tặng ông bức thư pháp thể hiện lời răn của cụ Khổng Tử. Đã mười mấy năm rồi, bức thư pháp viết bằng mực Tầu trên giấy bạch vân, lồng kính, vẫn treo trang trọng trên tường như hồn vía của lớp người trọng chữ.

Thời nhà văn Nguyễn Khải còn ở Hà Nội, cũng thường hay lui tới căn phòng này thăm ông. Tình bạn vong niên, chênh nhau bảy tuổi, vậy mà lại rất tri kỷ. Từ ngày ông Nguyễn Khải theo gia đình chuyển vào Sài Gòn sinh sống, ông Thợ Rèn cũng thêm buồn vì xa bạn. Hàng năm Tết đến, ông Nguyễn Khải vẫn  gửi thiếp chúc mừng năm mới đến ông Thợ Rèn. Hễ có bạn văn đến chơi, ông Thợ Rèn lại đem ra khoe như để nguôi ngoai nỗi nhớ.

Con người thường lo những “việc lớn” của xã hội, vậy mà ông lại biết tạo những niềm vui nho nhỏ trong đời thường. Thời còn khỏe, ngày nghỉ, ông thường chăm chút khóm hồng và mấy cây cảnh trồng trong chậu sứ đặt ở ban công. Cây hồng cũng không phải xum xuê gì lắm,  nó  khiêm nhường nở một hai đóa hoa cánh thắm trước cái khung trời xanh mướt tán cây cổ thụ của đường phổ cổ, đem đến cho ông những niềm vui thanh tao. Bộ ghế triện gỗ trắc vách đục bát tiên luôn được ông lau sạch, vân gỗ  óng lên cùng với màu thời gian. Đã có những buổi chiều, ông ngồi trên bộ ghế ấy, ngắm hoa hồng nở ngoài hiên, và ngẫm nghĩ sự đời trong đục, trắng đen. Có lẽ khi ấy, ông  thêm thấy trách nhiệm trước cuộc sống càng trĩu nặng ngòi bút.

Sự nghiệp đời người là cái gì? Công danh tiền bạc ư? Với ông, ngay thời trai trẻ, hình như ông cũng không màng quá về những khoản đó. Danh lợi đời người biết thế nào cho phỉ? Cái ma lực đồng tiền và quyền chức, để thoát  khỏi nó, cũng không phải dễ với kiếp người bé nhỏ. Năm 2006, ông đã được trao tặng huy hiệu 60 năm tuổi Đảng. Theo cách mạng từ tuổi còn xanh, hòa bình được phân về công tác ở báo Nhân dân, tờ báo của Đảng, lại là người tham gia khởi xướng chuyên mục quan trọng trên báo, ấy vậy khi về hưu, ông vẫn chỉ là một chuyên viên bình dị. Có dạo, anh em viết lách thấy ông ăn vận áo quần rất diện, cưỡi xe máy Pô-giô đi làm (dạo đó, trong giới nhà văn chỉ có ông Nguyễn Đình Thi cũng đi loại xe máy sang trọng này!), hỏi ra mới biết xe và quần áo do người anh ở bên Pháp gửi về. Thời ấy, xã hội còn soi mói, nhiều người phải giấu biệt chuyện có người ruột thịt đang sống ở các nước phương Tây, sợ liên lụy. Với ông Thợ Rèn thấy chả có gì phải giấu diếm. Việc ai người nấy làm, chả có gì phải khuất tất, ông cứ thẳng băng mà sống. Ngày ông anh ruột của ông từ Pháp về thăm, cho ông niềm vui khôn tả. Thì ra ông anh cũng là người cơ sở của ta. Sau thời gian về thăm Tổ quốc, người anh trở lại Pháp, liền bị ám sát. Cái chết đột ngột của người anh ruột xa xứ, là nỗi buồn khó khỏa lấp trong tâm khảm ông.

Những thú vui tao nhã, như uống trà mạn, ngồi ngắm chậu hồng ngoài ban công, ngắm tranh bạn tặng, rồi như cũng dần nhạt. Tuổi già sầm sập  đến khi nào không hay...

Một chiều hè, tôi đến thăm ông. Tôi chạnh lòng. Một người tinh nhanh, thông tuệ và hóm hỉnh độ nào, nay  đành nằm bất lực lúc tỉnh lúc say, vì trận ốm tai biến. Thế là ông nhớ nhớ quên quên mất rồi. Nhưng  có điều lạ, khi người con gái rất mực chăm sóc ông, hỏi lại ông mấy câu thơ trong bản thảo  bị nhòe chữ, mắt ông chợt sáng bừng lên và ông liền trả lời rất chuẩn xác. Thơ ca có phải là liều thuốc kỳ diệu với con người không? Hay ít ra, nó có sức mạnh kỳ ảo với tâm hồn nhà thơ? 

Nhưng tôi như thấy, khi phần hồn  đang dần thoát khỏi phần xác, thì con người trở nên bé nhỏ và yếu đuối biết nhường nào.                                                         

Vũ Từ Trang