Quốc hội biểu quyết thông qua chỉ tiêu GDP năm 2019 từ 6,6-6,8%
Tin tức - Ngày đăng : 16:56, 08/11/2018
Sáng 8-11, 447/450 đại biểu Quốc hội đã biểu quyết tán thành thông qua Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019.
Kết quả biểu quyết thông qua toàn văn Nghị quyết |
Trước khi biểu quyết thông qua toàn văn Nghị quyết, các đại biểu đã biểu quyết riêng về mục 1.2 với 12 chỉ tiêu chủ yếu trong phát triển kinh tế-xã hội với 446/449 đại biểu tán thành (chiếm 91,96%).
Theo đó, chỉ tiêu đầu tiên xác định tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 6,6-6,8%. Tại báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh nêu có ý kiến đề nghị quyết định chỉ tiêu GDP tăng 6,8-7%; có ý kiến đề nghị nên giữ như năm 2018 từ 6,5-6,7%.
Trước những ý kiến này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nêu quan điểm, chỉ tiêu tăng GDP năm 2019 đã được tính toán trên cơ sở GDP ước thực hiện của năm 2018 đạt và vượt mức 6,7%. Qua dự báo và các cân đối lớn của nền kinh tế cũng như tham khảo đánh giá của một số tổ chức quốc tế, Chính phủ báo cáo Quốc hội mức tăng GDP 6,6-6,8% cho năm 2019 là bảo đảm tính thận trọng, hài hòa giữa mục tiêu tăng trưởng và kiềm chế lạm phát, tiếp tục tạo nền tảng ổn định kinh tế vĩ mô và giải quyết các vấn đề xã hội.
Về chỉ tiêu tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) khoảng 4%, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng nhận định là phù hợp, bảo đảm thận trọng trong kiểm soát lạm phát nhưng cũng không thắt chặt chính sách tiền tệ quá mức, góp phần thực hiện đồng thời mục tiêu giữ ổn định kinh tế vĩ mô và kích thích tăng trưởng. Tuy nhiên, cần lưu ý Chính phủ mục tiêu Quốc hội đã giao tại Nghị quyết số 142/2016/QH13 của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020 là phấn đấu kiểm soát lạm phát 3% vào năm 2020.
Để hoàn thành mục tiêu tổng quát và 12 chỉ tiêu cụ thể, Nghị quyết đã nêu 10 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của năm 2019, trong đó nhiệm vụ hàng đầu là tăng cường năng lực, chủ động, phân tích, dự báo, theo dõi sát diễn biến tình hình quốc tế, trong nước để chủ động có đối sách phù hợp và kịp thời; thực hiện đồng bộ, quyết liệt các đột phá chiến lược; thực hiện quyết liệt, hiệu quả các Nghị quyết Quốc hội về cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng theo chiều sâu; tiếp tục cơ cấu lại thu, chi ngân sách; quản lý, khai thác có hiệu quả nguồn lực tài nguyên, tăng cường bảo vệ môi trường; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, bảo vệ và chăm sóc, nâng cao sức khỏe của nhân dân; thực hiện nghiêm việc đổi mới, sắp xếp lại tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ công chức, viên chức...
Quốc hội giao Chính phủ, chính quyền địa phương các cấp, TAND tối cao, Viện KSND tối cao, Kiểm toán nhà nước theo chức năng, nhiệm vụ được giao tổ chức thực hiện thành công Nghị quyết.
Quốc hội cũng kêu gọi đồng bào, chiến sỹ cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài nêu cao tinh thần thi đua yêu nước, đoàn kết, phát huy nội lực, tận dụng thời cơ thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện thành công kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019, tạo cơ sở vững chắc cho việc hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020.
Trước những ý kiến này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nêu quan điểm, chỉ tiêu tăng GDP năm 2019 đã được tính toán trên cơ sở GDP ước thực hiện của năm 2018 đạt và vượt mức 6,7%. Qua dự báo và các cân đối lớn của nền kinh tế cũng như tham khảo đánh giá của một số tổ chức quốc tế, Chính phủ báo cáo Quốc hội mức tăng GDP 6,6-6,8% cho năm 2019 là bảo đảm tính thận trọng, hài hòa giữa mục tiêu tăng trưởng và kiềm chế lạm phát, tiếp tục tạo nền tảng ổn định kinh tế vĩ mô và giải quyết các vấn đề xã hội.
Về chỉ tiêu tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) khoảng 4%, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng nhận định là phù hợp, bảo đảm thận trọng trong kiểm soát lạm phát nhưng cũng không thắt chặt chính sách tiền tệ quá mức, góp phần thực hiện đồng thời mục tiêu giữ ổn định kinh tế vĩ mô và kích thích tăng trưởng. Tuy nhiên, cần lưu ý Chính phủ mục tiêu Quốc hội đã giao tại Nghị quyết số 142/2016/QH13 của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020 là phấn đấu kiểm soát lạm phát 3% vào năm 2020.
Để hoàn thành mục tiêu tổng quát và 12 chỉ tiêu cụ thể, Nghị quyết đã nêu 10 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của năm 2019, trong đó nhiệm vụ hàng đầu là tăng cường năng lực, chủ động, phân tích, dự báo, theo dõi sát diễn biến tình hình quốc tế, trong nước để chủ động có đối sách phù hợp và kịp thời; thực hiện đồng bộ, quyết liệt các đột phá chiến lược; thực hiện quyết liệt, hiệu quả các Nghị quyết Quốc hội về cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng theo chiều sâu; tiếp tục cơ cấu lại thu, chi ngân sách; quản lý, khai thác có hiệu quả nguồn lực tài nguyên, tăng cường bảo vệ môi trường; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, bảo vệ và chăm sóc, nâng cao sức khỏe của nhân dân; thực hiện nghiêm việc đổi mới, sắp xếp lại tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ công chức, viên chức...
Quốc hội giao Chính phủ, chính quyền địa phương các cấp, TAND tối cao, Viện KSND tối cao, Kiểm toán nhà nước theo chức năng, nhiệm vụ được giao tổ chức thực hiện thành công Nghị quyết.
Quốc hội cũng kêu gọi đồng bào, chiến sỹ cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài nêu cao tinh thần thi đua yêu nước, đoàn kết, phát huy nội lực, tận dụng thời cơ thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện thành công kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019, tạo cơ sở vững chắc cho việc hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020.
12 chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội năm 2019: - Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 6,6-6,8%; - Tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) khoảng 4%; - Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 7-8%; - Tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu dưới 3%; - Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 33-34% GDP; - Tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều) giảm 1-1,5%, riêng các huyện nghèo giảm 4%; - Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; - Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 60-62%, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo có văn bằng, chứng chỉ đạt 24-24,5%; - Số giường bệnh/một vạn dân (không tính giường trạm y tế xã) đạt 27 giường; - Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 88,1%; - Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường 89%; - Tỷ lệ che phủ rừng đạt 41,85%. |